Học thuyết và giáo lý của Duy Thức Tông Phật Giáo là gì?
Học thuyết và giáo lý của Duy Thức Tông Phật Giáo là gì?
Last updated
Học thuyết và giáo lý của Duy Thức Tông Phật Giáo là gì?
Last updated
Học thuyết và giáo lý của Duy Thức Tông Phật Giáo là gì? Duy Thức Tông thuộc Phật Giáo Đại Thừa, là một phái phân tích rằng vũ trụ, mọi vật đều do duy thức biến hiện ra. Ở Ấn Độ, Duy Thức hay còn gọi là Thức Tông, Thức Học Tông, Du Già Hành Tông. Theo các truyền thuyết thì chính ứng thân của Bồ Tát Di Lặc đã sáng lập ra trường phái này vào thế kỷ IV CN. Đây là trường phái do đại sư Vô Trước và em trai mình là Thế Thân – người giúp sư Vô Trước bỏ Tiểu Thừa sang tu tập Đại Thừa. Tương truyền rằng Bồ Tát Di Lặc đã truyền dạy cho Ngài Vô Trước 5 bộ luận là: Du già sư địa luận, Kim cang bát nhã ba la mật luận, Biện trung biên luận, Phân biệt du già luận, Đại Thừa trang nghiêm luận. Trong suốt một tháng trời, Ngài Vô Trước đêm học với Bồ Tát Di Lặc, ngày lại đi truyền bá những điều Ngài đã học được. Nhờ vậy mà giúp giáo phái này ngày càng phổ biến. Sau khi nhà sư Huyền Trang (đời Đường) từ Ấn Độ trở về đã phiên dịch các bộ luận của Duy Thức Tông sang tiếng Hán và truyền bá rộng rãi những học thuyết của phái này. Từ đó hình thành phái này ở Trung Quốc và nhanh chóng lan tỏa ra các nước Đông Á. Học thuyết của Duy Thức Tông dựa vào ý nghĩa trung đạo của Duy thức luận. Môn Phái này quy chiếu tất cả mọi hiện tượng, sự vật trong vũ trụ chia thành 100 pháp khác nhau (bách pháp) và thành 5 nhóm lớn là: tâm (8 pháp), tâm sở hữu (51 pháp), sắc (11 pháp), tâm bất tương ưng hành (24 pháp) và vô vi (6 pháp). Trong đó, tâm pháp là nhóm quan trọng nhất, 8 pháp này chính là 8 thức của chúng sinh (nhãn thức, thân thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, ý thức, mạt-na thức,và a-lại-da thức). Hình ảnh bánh xe chuyển pháp luân Trong 8 thức trên thì 3 thức cuối là ý thức, mạt-na thức, a-lại-da thức là quan trọng nhất, điều hành tất cả mọi hoạt động của chúng sinh. Ý thức là thức kiểm soát và điều khiển 5 thức đứng trước nó. Mạt-na thức và a-lại-da thức cũng là 2 thức chỉ huy nhưng lại nắm vai trò hậu trường. Thức a-lại-da có thể ghi nhớ tất cả những điều thiện – ác mà con người đã tạo ra gọi là chủng tử, cho đến khi gặp điều kiện thích hợp, những chủng tử này sẽ sinh hình thành những sự việc tốt xấu. Đây cũng chính là lý thuyết về nhân quả trong Phật Giáo. Khi ban gieo chủng tử ác sẽ khởi phát những hoàn cảnh, điều kiện xấu, và ngược lại, những chủng tử thiện sẽ tạo nên những điều may mắn, tốt đẹp cho chúng sinh. Nguồn: Giác Ngộ Tâm Linh